Tổng hợp phụ chương
Phụ chương về dòng thời gian tại Madia I (Từ 'Khởi nguyên' đến 'Sự suy tàn của các Orkin')
6 Bình luận - Độ dài: 4,727 từ - Cập nhật:
Triều đại Deus (thời gian tồn tại không xác định)
Loài Deus là một trong những giống loài đầu tiên cai trị hành tinh Madia. Họ là giống loài sở hữu những nguồn năng lượng ma pháp hùng mạnh có thể thống trị cả Ngân Hà nếu như họ muốn.
Chiến tranh giữa Triều đại Deus và Đế chế Thiên Hà Timaeus
Trong một khoảng thời gian không xác định, Đế chế Thiên Hà Timaeus đã mở một cuộc xâm lược lớn vào hành tinh Madia dưới thời trị vì của Cửu Tuyệt Hội. Shiva và Nergal, hai thành viên trọng yếu đã được Cửu Tuyệt Hội đề cử để ngăn chặn cuộc xâm lược này.
Trong vòng khoảng thời gian bằng một chu kỳ của mặt trăng Mephisto xoay quanh thế giới Madia, Shiva đã hủy diệt hai hạm đội viễn chinh gồm bảy tỷ tàu chiến của đế chế Timaeus một cách dễ dàng. Trong lúc đó, Nergal đã cho phát nổ các mặt trời ở vài chục hệ sao dưới quyền kiểm soát của đế chế, giết chết hàng trăm tỷ sinh mạng như một lời cảnh cáo đầy chết chóc gửi đến hoàng đế hiện tại của Timaeus.
Sau ba thế hệ hoàng đế tại đế chế Timaeus, Tius Đệ tam sau khi lên ngôi đã điều động một đội quân lớn để tái xâm chiếm Madia. Đội quân viễn chinh lần này bao gồm 97 hạm đội chủ lực của đế chế. Trong đó, hạm đội Ankasus trứ danh thiện chiến của Đế chế đem theo nhiều vũ khí hủy diệt hạng nặng, trong số đó có thể kể đến Staros. Đây là loại vũ khí hủy diệt cấp độ hệ sao, có tầm bắn rất xa ước chừng khoảng cách của hai hệ sao. Thứ vũ khí tối thượng này là con át chủ bài cuối cùng của hoàng đế trong trường hợp cuộc xâm lược vào Madia thất bại.
Đối diện với một cuộc xâm lược quy mô lớn từ Timaeus, Cửu Tuyệt Hội đã mở một cuộc họp lớn để bàn về việc có nên hủy diệt Timaeus và tiêu diệt chín trên mười phần dân số của toàn đế chế hay không. Sau một cuộc họp căng thẳng, với số phiếu thuận áp đảo số phiếu chống, cuộc thảm sát được thông qua và sẽ được thực hiện dưới quyền năng của Nergal.
Dưới nghi lễ pháp thuật được thực hiện bởi Nergal và trợ giúp bởi hàng loạt các Deus quyền năng khác, một cơn bão với quy mô lớn quét qua toàn bộ các hành tinh của đế chế Timaeus. Cơn bão phá hủy hầu hết các hạm đội, căn cứ quân sự ngoài không gian của đế chế Timaeus chỉ trong một khoảng thời gian ngắn. Nó cũng mang theo những dịch bệnh hiểm độc kỳ lạ, giết chết gần như toàn bộ dân số trên các hành tinh chỉ trong vòng vài ngày tính theo lịch của đế chế.
Trong phút chốc Đế chế Thiên Hà Timaeus sụp đổ, nền văn minh tiên tiến bị xóa số và nhanh chóng dần trở về thời kỳ đồ đá trên hầu hết các hành tinh của đế chế. Cuộc chiến tranh giữa Triều đại Deus và Đế chế Thiên Hà Timaeus kết thúc một cách chóng vánh, và dần trở thành một truyền thuyết được kể lại giữa cộng đồng những người dân Timaeus còn sống từ đời này sang đời khác.
Sự tiến hóa của loài Deus
Sau khi đã chạm đến ngưỡng sức mạnh tuyệt đối trên toàn cõi vũ trụ, người Deus đã trở thành những vị vua không ngai ở cả không gian và thời gian tại vũ trụ này. Họ cuối cùng đã quyết định thực hiện một đại nghi thức cho sự tiến hóa cuối cùng của giống loài họ. Nghi thức này được tiến hành bởi sự góp mặt của những thành viên quyền năng nhất của giống loài Deus. Một thuật toán ma pháp phức tạp được viết ra nhằm thay đổi kiến trúc mà số phận sắp đặt, đồng thời chuyển hóa ý thức của loài Deus thoát khỏi cơ thể vật lý hiện tại để trở thành những bản thể vĩ đại hơn.
Nghi thức thành công.
Giống loài Deus toàn bộ đều thăng thiên thoát khỏi cơ thể vật lý của họ. Họ hòa vào dòng chảy của số phận, trở thành mọi thứ, hiện hữu gián tiếp trong ý thức mọi vật nhưng họ bởi thế giờ đây cũng chẳng là gì cả.
Việc hòa mình vào dòng chảy vĩ đại của số phận khiến họ không còn có thể trực tiếp tác động tới vũ trụ mà họ từng cư trú. Mọi thứ diễn ra ở vũ trụ thực tại giờ đây lại giống như một giấc mộng dài đối với người Deus. Họ có thể cảm nhận được mọi thứ từ giấc mộng này nhưng thật khó khăn để có thể thay đổi được điều gì bên trong nó.
Sự trỗi dậy của Malum
Với sự rời đi của các Deus, hành tinh Madia trở nên hoàn toàn vô chủ. Những sinh vật ở hành tinh Madia bắt đầu trỗi dậy để chiếm lấy quyền cai trị hành tinh. Sau hàng ngàn năm giao chiến khốc liệt, từ hàng trăm phe phái trên hành tinh chỉ còn lại ba thế lực lớn duy nhất đối chọi với nhau.
● Malum là thế lực mạnh nhất đứng đầu trong ba thế lực hiện hữu ở Madia lúc này. Bọn chúng là những tạo vật được sinh ra từ các cảm xúc tiêu cực thái quá của các Deus. Dưới thời trị vì của các Deus, Malum chỉ được nhìn nhận như một loài côn trùng truyền nhiễm dịch bệnh thông thường. Bọn chúng sẽ bị giết chết một cách không thương tiếc bất kỳ lúc nào mà các Deus trông thấy chúng.
Bất lực trước sức mạnh tuyệt đối của các Deus, các Malum trốn chạy vào các chiều không gian khuất xa tầm mắt của những kẻ trị vì Madia lúc bấy giờ. Tuy nhiên, đám Malum đã ồ ạt trở lại khi cảm nhận được sự biến mất của các Deus ở hành tinh Madia. Những kẻ đứng đầu lũ Malum tự gọi mình là các Đại Quỷ Thần, thống lĩnh các binh đoàn với hàng tỷ sinh vật dị hợm hành quân vào Madia thông qua các cổng không gian. Chúng nhanh chóng càn quét khắp các lục địa của Madia, tiêu diệt và tha hóa các thế lực đối nghịch khác.
● Orkin là thế lực sở hữu các sinh hóa sư và pháp sư cổ ngữ hùng mạnh nhất trong ba thế lực. Những Orkin đầu tiên được các Deus tạo ra nhằm mục đích phục vụ cho xã hội của giống loài Deus. Dưới sự chỉ dẫn của các Deus, các Orkin thiết lập một trật tự xã hội phân quyền theo chế độ phong kiến thần quyền. Những kẻ đứng đầu trong xã hội Orkin là các Vua Linh Mục, được các Deus truyền dạy cho những pháp thuật hùng mạnh để giữ gìn trị an và trật tự trên các lục địa của Madia.
Khi các Deus biến mất, tất cả Vua Linh Mục trên Madia đều tuyên bố mình là người kế thừa xứng đáng của toàn hành tinh. Việc này dẫn đến một cuộc nội chiến đẫm máu giữa các thế lực Orkin với nhau. Cuộc chiến tàn phá lực lượng quân đội của các Orkin một cách nặng nề, và chỉ được dừng lại khi các Vua Linh Mục nhận ra lũ Malum đã chiếm được hơn một nửa số lượng lục địa ở Madia.
● Liên minh nhân loại và Elf là thế lực cuối cùng còn trụ lại trong cuộc chiến này. Trong công cuộc sáng tạo ra giống loài mới để tiêu khiển, các Deus sáng tạo ra loài người trước cả các Elf. Dù các Deus cảm thấy vui vì loài người là một giống loài đa dạng về tính cách và vô cùng thú vị, nhưng tuổi thọ ngắn ngủi của nhân loại khiến các đấng sáng tạo cảm thấy vô cùng buồn lòng. Họ quyết định tạo ra một giống loài mới với tuổi thọ dài hơn loài người cũng như chăm chút hơn về những chi tiết ngoại hình. Cứ như thế, các Elf ra đời sau hàng năm trời cố gắng nhào nặn của các Deus. Các Elf không những sở hữu tuổi thọ vượt xa loài người, mà về mặt hình thể và trí tuệ cũng hoàn toàn ưu việt hơn. Dù vậy, các Deus cũng nhận ra rằng khả năng sinh sản của loài Elf khá thấp nếu so sánh với loài người.
Lúc các Deus biến mất và chứng kiến cuộc nội chiến đẫm máu của các Orkin, nhân loại và Elf đã tập trung toàn bộ nhân số của cả hai tộc rồi cố thủ ở các pháo đài cổ ngữ. Họ cũng tiếp nhận một số nạn dân còn sống sót của các tộc thua trận khác tháo chạy về các pháo đài của mình. Dù đã thành công trong việc bảo toàn đa số lực lượng của phe mình cũng như sống sót qua giai đoạn đẫm máu ban đầu của cuộc chiến, sự diệt vong cuối cùng rồi cũng sẽ tới nếu như các Elf và nhân loại vẫn tiếp tục giữ mình sau những bức tường thành kiên cố.
Sự suy tàn của các Orkin
● Sự ra đời của Orc và Goblin
Khi các Orkin nhận ra rằng lũ Malum đã kiểm soát được hơn một nửa số lượng lục địa trên hành tinh, bọn họ vội vàng đình chiến với nhau và thiết lập một liên minh với mục đích chống lại mối đe dọa của lũ quỷ.
Tuy thế, lực lượng quân sự của các Orkin đã bị suy kiệt nghiêm trọng sau cuộc nội chiến. Vì vậy, các sinh hóa sư của liên minh Orkin đã quyết định tạo ra các giống loài mới từ gen của họ để bổ sung quân lực cho trận chiến với các Malum.
Giống loài đầu tiên bọn họ tạo ra từ gen của mình được gọi là Orc. Loài Orc có chiều cao bằng một nửa các Orkin, có nghĩa là một con Orc trung bình cao khoảng tầm hai mét. Chúng có vóc dáng đầy cơ bắp, khỏe mạnh và tính tình cực kỳ hiếu chiến. Chúng là tạo vật mà các Orkin tạo ra để chuẩn bị cho chiến tranh, nên toàn bộ giống loài chỉ có giới tính nam không hề có bất kỳ cá thể nữ nào. Ngoài ra, lũ Orc sinh sản bằng hạt bụi ma thuật từ máu chúng tiết ra. Thứ bụi này tồn tại rất lâu trong không khí, nhưng nó chỉ sẽ phát triển mạnh mẽ trong môi trường ma thuật phù hợp. Nếu loại bụi này rơi vào môi trường thích hợp, một con Orc sẽ thuận lợi được sinh ra chỉ trong vòng hai tuần và chỉ mất khoảng tầm một tháng để nó trở thành một con Orc trưởng thành. Mặt khác với tham vọng kiểm soát giống loài mới này cho mục đích chiến tranh, các Orkin đã hạn chế khả năng trí tuệ của loài Orc nhằm thuận lợi điều khiển và ra lệnh cho chúng.
Giống loài thứ hai mà các Orkin vô tình tạo ra được gọi là Goblin. Chúng là những tạo vật được sinh ra từ việc lỗi gen và đột biến của bụi sinh sản Orc. Đa phần những con Goblin đều có ngoại hình gầy đét, chiều cao chỉ ngang với một đứa trẻ loài người. Tuy nhiên, sự đột biến trong hạt bụi ma pháp khiến tốc độ sinh sản của chúng còn nhanh hơn cả loài Orc. Trung bình, một hạt bụi có thể sinh ra một con Orc, nhưng một hạt bụi đột biến lại sinh ra tới hơn vài chục con Goblin. Các Orkin cũng chẳng khai trừ sản phẩm lỗi này làm gì, họ kết nạp lũ Goblin vào quân đoàn của họ để sử dụng như những chiếc khiên thịt chống lại lũ Malum.
Nhờ vào sự ra đời của hai giống loài mới với tốc độ sinh sản cực nhanh, các Orkin nhanh chóng gầy dựng lại quân lực của mình và giành lại lợi thế khi giao tranh với lũ Malum. Dưới sự chỉ đạo của các Orkin, quân đoàn Orc và Goblin đẩy lùi các binh đoàn dị vật của lũ Malum ra khỏi các lãnh thổ chúng đã chiếm được, phá hủy hàng ngàn cổng không gian mà lũ Malum dùng để đưa quân vào Madia. Các Vua Linh Mục cũng giao chiến ác liệt với các Đại Quỷ Thần. Áp dụng các pháp thuật cổ ngữ được truyền dạy bởi các Deus, những vị Vua Linh Mục ban cho lũ quỷ thần cái chết vĩnh viễn khi dám cả gan đối đầu với họ.
Sợ hãi trước thứ sức mạnh kinh hoàng mà liên quân Orkin thống nhất phô bày, lũ Malum chuyển từ chiến thuật tấn công ồ ạt sang thiết lập hệ thống phòng thủ vững chắc tại pháo đài Barates. Điều này đẩy tình hình chiến trận rơi vào thế giằng co, khiến cả hai phe lâm vào cảnh bế tắc trong một thời gian dài.
Pháo đài Barates là một pháo đài rộng lớn và hùng vĩ với diện tích hơn 300,000 kilômét vuông. Ban đầu, nó được kiến tạo bởi các Deus như một khu vực nghiên cứu chế tạo loài Aspirad, nhưng sau khi các Deus rời đi, loài Aspirad đã thành lập một vương quốc riêng trong khu vực này rồi đổi tên khu nghiên cứu thành pháo đài Barates. Đáng tiếc thay, trong cuộc chiến chống lại các Malum, loài Aspirad đã gần như bị tuyệt diệt. Một số ít may mắn thì tẩu thoát về được phía các pháo đài của loài người và Elf để tị nạn, một số kém may mắn hơn thì bị lũ Malum tha hóa, bị biến đổi thành những sinh vật ghê tởm phụng sự cho cuộc chinh phạt của bọn chúng. Giờ đây, pháo đài Barates đã nằm dưới sự kiểm soát đầy hắc ám của lũ Malum. Cả ngày lẫn đêm, lũ Malum liên tục gia cố pháo đài, biến nó thành một thành trì bất khả chiến bại, không thể công phá.
Chẳng ai tại thời điểm đó có thể ngờ rằng, trận chiến đầy bế tắc này đã đổi chiều một cách bất ngờ chỉ vì sự phản bội của một tên Goblin nhỏ nhoi.
Một con Goblin tên là Xiergeerd đã bị bắt và giam cầm bởi lũ Malum. Bị lay chuyển bởi những cám dỗ và viễn cảnh mà lũ Malum vẽ ra, con Goblin đã quyết định hợp tác với lũ Đại Quỷ Thần để tiêu diệt các Orkin. Lũ Đại Quỷ Thần trao cho Xiergeerd một chiếc vòng cổ mề đay tinh xảo, nói với hắn bằng mọi cách phải giao chiếc vòng cổ cho Bazur Hoàng Kim Giáp, chiến tướng mạnh nhất của lũ Orc.
Nhờ vào pháp thuật hắc ám của các Đại Quỷ Thần, Xiergeerd có thể nhanh chóng trở về đại bản doanh của quân Orc. Sau khi gặp Bazur, tên Goblin đã bịa ra một câu chuyện về việc hắn đã đánh lừa, rồi giết chết một tên hắc pháp sư để trốn chạy khỏi sự giam cầm. Hắn cũng dâng lên chiếc vòng cổ cho Bazur, thứ mà hắn nói là một chiến lợi phẩm cướp được từ xác tên pháp sư xấu số. Ấn tượng trước vẻ đẹp của chiếc vòng cổ và sự khôn ngoan của Xiergeerd, tên chiến tướng Bazur chấp nhận món quà và phong cho Xiergeerd chức vụ đại tướng chỉ huy các quân đoàn Goblin.
Kể từ khi nhận món quà của tên Goblin, Bazur thường có những giấc mơ kỳ lạ. Trong những giấc mơ đó, hắn thấy mình chỉ là một công cụ cho tham vọng của các Orkin. Với mỗi chiến thắng mà hắn gặt hái được, chiếc ngai làm bằng sọ của các Vua Linh Mục ngồi lại nâng cao hơn một chút. Hắn ngước nhìn chiếc ngai, nói với các vị vua rằng hắn cũng muốn có một chiếc ngai riêng cho mình. Những vị vua không trả lời, họ chỉ cười rồi nhìn hắn một cách tàn độc. Sau đó, họ vung chân lên đạp chết hắn trong lúc hắn giãy giụa, kêu gào trong tuyệt vọng. Thời điểm mà hắn chết trong giấc mơ luôn là thời khắc hắn bật người tỉnh dậy trong thực tại. Ban đầu khi những giấc mơ xuất hiện, hắn thường chỉ cảm thấy bối rối, sợ hãi nhưng rồi theo thời gian sự sợ hãi trở thành cảm giác phẫn nộ và thù ghét.
Nghe theo những lời thì thầm trong mơ về cách để đạt được sức mạnh tối thượng có thể lật đổ các Orkin, Bazur tìm đến một ngôi đền bỏ hoang cách doanh trại của hắn không xa. Tại đây, hắn bắt gặp 13 người mang áo choàng đen bí ẩn, những kẻ mà hắn tin rằng là các Đại Quỷ Thần trong lốt người thường. Các Đại Quỷ Thần yêu cầu sự thuần phục của hắn, đổi lại họ sẽ cho hắn thứ quyền năng có thể giết chết các Vua Linh Mục và toàn bộ giống loài Orkin. Tuy thế, Bazur đã từ chối, hắn nói rằng hắn muốn có chiếc ngai riêng của mình và sẽ không thuần phục bất kỳ ai, ngay cả các quỷ thần hùng mạnh. Hắn cũng tin rằng nếu các Đại Quỷ Thần không giúp hắn trong việc giết chết các Orkin, sớm hay muộn họ cũng sẽ bại trận hoàn toàn dưới quyền năng của các Vua Linh Mục.
Dù bực tức trước thái độ ngạo mạn của tên Bazur, các Đại Quỷ Thần vẫn tin rằng họ có thể dần dần tha hóa tên chiến tướng Orc nếu hắn chấp nhận sức mạnh hắc ám của họ. Bởi thế, 13 Đại Quỷ Thần đã ban cho Bazur những quyền năng tối thượng để hắn có thể đánh bại các Vua Linh Mục:
● Angra Mainyu ban cho thanh Quỷ Kiếm Angra, thứ vũ khí có thể gây tổn thương linh hồn và giết chết hoàn toàn một Vua Linh Mục.
● Bael ban cho sự am hiểu về các ma pháp ẩn thân cao cấp, phép triệu hồn và sự xảo quyệt trong mưu kế.
● Asmodeus ban cho bộ Hắc Giáp Cataclysmus. Các vũ khí dưới cấp độ truyền thuyết sẽ hóa thành tro bụi khi chạm vào bộ giáp này.
● Asag ban cho khả năng triệu hồi các ác linh đá tà ác. Thứ tà thuật có thể triệu hồi một đội quân với số lượng hàng ngàn ác linh Titan đá cấp cao.
● Karasu ban cho kỹ năng Ác thần khí, giúp người sử dụng khi kích hoạt có thể tỏa ra luồng ác khí làm run sợ những kẻ đối đầu. Đối với những kẻ yếu đuối, chúng có thể phát điên ngay lập tức khi đối mặt với luồng khí này.
● Yaolong ban cho chiếc Dây Chuyền Yaolong, gia tăng một cách kinh khủng năng lượng của người sử dụng. Nguồn năng lượng khi Bazur đeo chiếc dây chuyền vào ngang ngửa với nguồn năng lượng của một Vua Linh Mục.
● Shuten-dōji ban cho kỹ năng bị động Lời chúc phúc của Shuten-dōji, giúp người sử dụng có thể vô hiệu hóa các pháp thuật tấn công dưới cấp độ A.
● Amdusias ban cho cặp Giáp Chân Amdusias, giúp kẻ sở hữu gia tăng tốc độ ngang bằng với các vị Đại Hắc Thần và có thể di chuyển được trên mọi địa hình.
● Lamashtu ban cho con thú cưỡi Fangrover, một con Chimera cao hơn 30 mét có đôi cánh của loài chim ưng địa ngục và lớp da của các hắc long vương.
● Kalvuuth ban cho kỹ năng Lời chúc phúc thứ bảy của Kalvuuth, giúp cho hắn miễn nhiễm với hầu hết các loại độc. Ngoài ra, máu trong người của Bazur trở thành chất kịch độc khi thoát ra ngoài cơ thể. Chất độc từ máu không mùi, không vị. Các đại hắc thần nói rằng thứ chất độc đó có thể làm suy yếu đáng kể các Vua Linh Mục khi họ uống vào.
● Saroza ban cho kỹ năng Lời chúc phúc thứ hai của Saroza, giúp cơ thể của Bazur trở nên cứng cáp hơn cả Adamantium và có thể liên tục hồi phục các vết thương trên cơ thể.
● Runrisea ban cho chiếc Mũ Trụ Midrade, giúp cho người đội mũ có thể vận dụng hầu hết các ma thuật hắc ám bậc A.
● Sagronnol ban cho chiếc Nhẫn Sagronnol, cho phép người sở hữu hút máu của kẻ thù và đánh cắp một phần nhỏ sức mạnh của chúng.
Sau khi nhận được hết tất cả các quyền năng từ những hắc thần, cơ thể của Bazur phình to lên một cách đáng kể. Từ một con Orc với kích thước tầm ba mét, Bazur giờ đây đã cao hơn chín mét với một cơ thể đồ sộ, đầy rắn chắc. Dù thế, thứ ma thuật ẩn thân của Bael khiến Bazur trông chẳng có vẻ gì là thay đổi trong mắt các hắc thần.
● Chính biến Barates
Kể từ sau ngày giao ước với các hắc thần tại ngôi đền bỏ hoang, Bazur trở về doanh trại của mình và cư xử như thể chưa từng có chuyện gì xảy ra. Tuy nhiên, hắn đã âm thầm gầy dựng một thế lực ngầm của riêng mình trong bóng tối. Để tránh dấy lên sự nghi ngờ, Bazur liên tục tham gia vào các chiến dịch tấn công của Vua Linh Mục Igrath Kalar vào pháo đài Barates của lũ Malum, trong lúc giao lại việc chiêu mộ, mở rộng thế lực cho một con Orc tên Shagdub, cũng là tên thuộc hạ thân cận nhất của hắn. Dần dần theo thời gian, lực lượng phản trắc của Bazur đã tăng lên một cách đáng kể. Gióng lên những tiếng chuông đầu tiên cho sự diệt vong của giống loài Orkin.
Tuy thế, các Vua Linh Mục cũng chẳng hề để ý tới sự thay đổi này mấy, bởi vì tất cả sự tập trung của họ đều đổ dồn vào tiền tuyến. Tin chiến thắng đã được gửi về liên tục, thế giằng co đã bị phá vỡ khi quân đoàn của Vua Linh Mục Igrath Kalar xuyên thủng tuyến phòng ngự của lũ Malum tại lâu đài Barates. Pháo đài vĩ đại Barates cuối cùng đã được liên quân Orkin chiếm giữ và đưa về dưới sự kiểm soát của chính mình. Điều này càng làm các Vua Linh Mục khác hăng hái gia tăng sự hiện diện của mình trên chiến trường. Chỉ trong ba năm sau đó, lũ Malum đã mất hơn một phần ba lãnh thổ của mình vào tay các Vua Linh Mục, 666 Đại Quỷ Thần tham chiến giờ đây chỉ còn lại vỏn vẹn 88 tên.
Để đánh dấu cho cột mốc vẻ vang này, các Vua Linh Mục đã tổ chức một buổi lễ lớn tại Barates. Trừ Vua Linh Mục Ignash Hagare đang bận đàm phán với liên quân của loài người và Elf, toàn bộ các Vua Linh Mục và lực lượng tinh nhuệ của họ đều tham gia và có mặt ở pháo đài Barates. Có một điểm mà các Orkin và lực lượng trung thành không hề hay biết, đó là đã có hơn bảy phần quân lực Orc lẫn Goblin trên toàn Madia đã quy thuận dưới trướng của tên Bazur.
Bữa tiệc của máu và sự bội phản như vậy đã chính thức được bắt đầu.
Khi bữa tiệc lên tới đỉnh điểm cao trào, khi các Vua Linh Mục say đắm trong men rượu và các Orkin thì đang thả mình trong những giai điệu chiến thắng của dân tộc họ, lũ Orc phản bội cũng bắt đầu tiến hành kế hoạch phản trắc của chúng. Sau khi triệt hạ các lực lượng trung thành canh giữ các khu vực trọng yếu, lũ Orc phản bội đã tiến hành các nghi thức khai mở cổng không gian để cho lũ Malum tràn vào.
Khi cánh cổng mở ra, lũ sinh vật dị hợm đầu tiên xuất hiện là lũ quỷ bóng tối có tên Ogluze. Dưới sự thống lĩnh của Bael và Karasu, chúng ẩn thân vào sâu trong bóng tối, giấu đi sự hiện diện của mình. Thật âm thầm và chậm rãi, chúng săn lùng và giết chết các binh sĩ của phe trung thành mà không ai hay biết.
Cho tới khi các Vua Linh Mục nhận ra được sự bất thường đang diễn ra, lực lượng quân trung thành đã bị tiêu diệt hết bốn phần quân lực và một kết giới hắc ám đã được lập ra để ngăn chặn các pháp thuật dịch chuyển cấp cao. Tức giận trước sự hiện diện của lũ Đại Quỷ Thần, một số Vua Linh Mục đã nhảy ra giao chiến với chúng, để rồi họ cay đắng nhận ra rằng bọn họ đã dính phải một loại độc kỳ lạ gây suy yếu nguồn năng lượng trong cơ thể. Điều này khiến các Vua Linh Mục đã không còn là đối thủ xứng tầm với các Đại Quỷ Thần nữa. Họ nhanh chóng bị giết chết một cách tàn nhẫn bởi các đối thủ độc ác của mình.
Một số Vua Linh Mục khác đã quyết định tháo chạy khỏi pháo đài cùng đội hộ vệ trung thành. Đáng buồn thay, tất cả bọn họ đều chết dưới tay Bazur và thuộc hạ của hắn. Sau khi hạ sát các Vua Linh Mục, Bazur đã uống sạch máu của tất cả bọn họ. Việc này giúp hắn nhận được khả năng miễn nhiễm trước sự tha hóa của lũ Malum, khiến việc cố gắng kiểm soát và tha hóa tên chiến tướng Orc trong tương lai dường như nằm ngoài tầm tay các Đại Quỷ Thần. Hơn nữa, tên chiến tướng Orc cũng rút xương của các Vua Linh Mục để chế tác ra thanh kiếm Amnesia, thứ vũ khí có thể ban cho các Đại Quỷ Thần một cái chết vĩnh viễn.
Trong cuộc chính biến tại Barates, chỉ có một vài kẻ có thể may mắn sống sót thoát khỏi pháo đài Barates:
● Granic Trung Thành là một hầu cận Goblin làm việc dưới trướng Vua Linh Mục Igrath Kalar. Sau khi Vua Linh Mục Igrath Kalar giao phó toàn bộ thông tin về vị trí các thánh vật của mình cho Granic, ông ta đã ở lại cầm chân quân truy kích của Xiergeerd cho Granic trốn chạy. Đó là lý do mà Granic vô cùng căm hận Xiergeerd và thề sẽ giết chết tên Goblin phản bội để phục thù cho chủ nhân của mình.
● Hashen Aslan, một pháp sư cổ ngữ Orkin cùng tiểu đội bốn người trốn thoát qua một đường hầm ẩn bên dưới pháo đài.
● Grakil Phục Hận, một chiến tướng Orc trung thành bị đẩy xuống vực sâu gần pháo đài nhưng may mắn sống sót.
Chính biến Barates kết thúc với chiến thắng nghiêng về quân phản bội của Bazur và các Đại Quỷ Thần. Trong trận thảm sát này, toàn bộ các Vua Linh Mục ở Barates đều đã bị giết chết, các sư đoàn Orkin tinh nhuệ và quân Orc lẫn Goblin trung thành đều gần như bị tuyệt diệt. Thiếu vắng sự chỉ huy của các Vua Linh Mục, quân đoàn Orkin thống nhất hoàn toàn bị tan rã trên toàn Madia, mặc sức cho lũ phản bội chém giết trong vô vọng.
6 Bình luận