Sống lại ở dị giới.
Chương 190: Cái chết nhân từ.
Trước lúc mặt trời lặn còn khoảng gần ba giờ, cũng là thời điểm đội thăm dò do nhóm Audrey dẫn đầu trên chiếc thuyền con cập vào thành phố cảng đầu tiên của Ila Erone, thành phố lời thệ nguyện của kiếm sĩ – Sestios. Không giống với cái tên đầy hoa mỹ vốn có của mình, thành phố này đang và đã bị nhuốm lên một màu và mùi tanh của máu mà nước của đại dương khó có thể gột rửa cuốn trôi những vết bẩn đó đi được.
Vì mục tiêu của chuyến hành trình, Audrey cần phải đưa nhóm dò đường bước vào thành phố này để tìm một số thông tin cơ bản. Một, chàng hiệp sĩ đến đây với cương vị của một tư lệnh trong đội hiệp sĩ dòng đền, nên chuyện của Thần Điện anh không thể không quan tâm, đó là âm thầm thu thập thông tin để giải quyết những gã tu sĩ biến chất. Hai, đó là anh cần tìm hiểu việc giới quý tộc nơi đây có móc nối gì với những tên tu sĩ biến chất kia, đồng thời cũng là bàn đạp để thực hiện mục tiêu thứ ba. Và mục tiêu thứ ba đó là cần con dấu chứng nhận nhập cảnh hợp pháp của người đứng đầu tòa thành này. Dù là những công hội to lớn nổi tiếng khắp đại lục, hay những tổ chức mang tầm thế giới thì vẫn phải tuân thủ theo nguyên tắc nhập cảnh cơ bản này nếu người đó không phải là người dân của đất nước mà họ đặt chân tới.
Đây không phải là lần đầu tiên người trong nhóm do thám của Audrey đến một đất nước xa lạ, họ hiểu và chấp thuận làm theo những điều kiện có tính chất ràng buộc về mặt pháp lý. Nhưng, những tên lính tại hải cảng và những tên quản lý xuất nhập văn thư là những kẻ tham lạm ra mặt, không kiêng nể gì những du khách vãng lai. Nếu là người giàu, thì chúng sẵn sàng đòi phí nhập cảng và phí đậu thuyền với một cái giá cắt cổ. Còn nếu là người nghèo, thì chúng vẫn có cách bóc lột theo từng đối tượng. Là phụ nữ có chút nhan sắc thì chúng sẽ đòi trả bằng thể xác. Nếu là đàn ông thì chúng sẽ đòi trả bằng sức lao động. Người già và trẻ nhỏ cũng không ngoại lệ, vẫn phải trả bằng sức lao động để có thể được cấp phép neo thuyền lại theo thời hạn do chúng đặt ra. Một khi làm công không kịp để đủ trả phí neo thuyền trong ngày thì quá giờ con thuyền sẽ tự động bị tịch thu, cho đến khi những người đó làm đủ giờ để chuộc lại tài sản của bản thân. Nhưng, một khi đồ đã vào tay bọn binh sĩ tham lạm này rồi thì chẳng bao giờ trả lại cho khổ chủ cả, vì chúng là những kẻ định giá cao thấp lẫn thời gian dài ngắn cho một chiếc thuyền neo đậu lại, chúng lừa công những người nghèo khổ kia làm việc lâu hơn và nhiều hơn. Giống như những người nghèo khổ đó đã tự động ký vào một bản cho vay nặng lãi khi vừa cập bến vào thành phố này mà họ không hề hay biết vậy, và cũng chẳng có giấy tờ nào ở đây cả, một bản nợ vô hình. Đấy là chưa kể đến phí nhập cảnh của từng người.
Đó là những điều vô lý mà Audrey đã chứng kiến khi vừa nộp phí đậu thuyền và phí nhập cảnh cho toàn bộ thành viên trong đội do thám lần này. Mười người, kể cả chàng tư lệnh, phí nhập cảnh hết một trăm đồng vàng và thêm một trăm đồng vàng nữa cho phí bị ép neo thuyền lại qua đêm. Một con số không tưởng đối với những người nghèo khó. Chỉ cần mười đồng vàng là đủ để một gia đình bốn người sinh hoạt được hai ba tháng tại nơi xa hoa như vương đô Orvel hay Aden. Quả là một con số phi lý, nhưng để tránh phiền phức bám theo Audrey đã nộp đủ hai trăm đồng vàng mà không thay đổi sắc mặt. Cái anh cần lúc này là một không gian thuận lợi hoàn thành các mục tiêu của mình mà không vướn phải rắc rối nào, những rắc rối nào có thể giải quyết được bằng tiền thì đối với anh không phải là vấn đề.
Vừa rời khỏi phòng thủ tục văn thư, Audrey liền quay sang ông mập béo tốt bên cạnh nói. “Ông Bartolmew Musgrave, sau khi đến điện thờ gần đây nhất để lấy thông tin xong thì chúng ta sẽ chia đội ra làm hai để tiến hành kế hoạch đã dự định ban đầu. Tôi sẽ đảm nhận tiếp cận chủ thành để xin con dấu nhập cảnh, còn ông sẽ lo điều tra các tu sĩ biến chất.”
“Rõ, thưa tư lệnh.” Ông béo nghiêm trang trả lời theo kiểu quân đội, rồi ông lại nở nụ cười rạng rỡ nói bằng vẻ mặt vô tư. “Hãy để tôi dẫn đường đến điện thờ gần đây nhất. Dù sao thì tôi cũng là sĩ quan thâm niên của giáo hội mà, nên trong tay có bản đồ phân bố của các đền thờ là chuyện bình thường.”
“Phiền ông đi trước rồi, chuẩn tướng Musgrave.” Audrey khách sáo trả lời, nhưng ánh mắt của anh lại để ý đến mọi thứ xung quanh.
Từ lúc đặt chân lên bến cảng, Audrey đã cảm thấy nơi này không yên bình như vẻ ngoài vốn có của nó, giờ đã tiến vào thành phố rồi thì anh lại càng chắc chắn cảm giác của mình không hề sai. Tại bến cảng trước đó, dù thuyền buôn lớn nhỏ ra vào tấp nập nhưng dường như không hề có chủ thuyền nào vào phòng văn thư làm thủ tục pháp lý thu phí như đội của anh ban nãy, mà họ trực tiếp đưa tiền luôn cho những sĩ binh canh gác dọc theo bến cảng. Điều đó nói lên, những thuyền buôn đó là người quen hoặc có móc nối với binh sĩ nơi này nên được loại bỏ những thủ tục cơ bản kia. Đó là nghi vấn thứ nhất.
Nghi vấn thứ hai, đó là khi rời khỏi phòng làm thủ tục và cả nhóm đã xuống phố rồi thì anh không hề nghe thấy tiếng rao bán chào hàng gì ở một nơi gần bến cảng như vậy, điều này là bất bình thường. Thường thì những khu vực gần bến cảng không phải là chợ thì cũng là những cửa hàng buôn bán hải đồ hoặc đồ lưu niệm. Sở hữu những vị trí địa lý đắc địa như thế mà các thương nhân mở tiệm ở đây không hề có một thái độ nào gọi là chào đón khách từ phương xa tới, mà họ lại trao cho đội của anh nhiều ánh nhìn dò xét dè chừng.
Nghi vấn thứ ba. Đội của anh hiện tại là các hiệp sĩ mang trên mình những bộ giáp bóng loáng đại diện cho hội hiệp sĩ dòng đền đến từ Thần Điện. Ấy vậy mà khi lướt qua vài tóp lính bản địa đang đi tuần trên phố, thì bọn chúng luôn khinh khỉnh gương mặt còn tỏ thái độ coi thường và nói bóng nói gió về nhóm của anh chả khác gì những con súc vật làm theo lệnh của lãnh chúa nơi này. Anh có thể ngầm hiểu đây là một manh mối có liên quan đến đám hiệp sĩ bảo hộ điện thờ nơi này và giới quý tộc đã có gì đó mờ ám với nhau. Tệ hơn nữa, có khả năng, những hiệp sĩ bảo hộ điện thờ nơi đây còn không bằng chó săn của đám quý tộc quyền quý nơi này nữa là.
Nghi vấn thứ tư, cũng là cuối cùng. Một thành phố cảng to lớn thế này đáng lý sẽ có rất nhiều loại người đi lại trong thành phố. Thế nhưng, trừ binh sĩ, vài người trông có vẻ như là quý tộc, và người trong mấy căn tiệm xa xỉ phẩm không bước chân ra đường, thì cả thành phố này dường như anh chưa từng gặp người dân hay hoạt động bản địa nào cả. Ít nhất là anh không hề thấy những người ăn mặc thuộc tầng lớp trung và dưới trung lưu nào đi lại cũng như bài tiệm bán buôn dọc đường. Phải biết rằng, dù có là ở vương đô đầy phồn hoa như Orvel thì thường vẫn có tầng lớp lao động ló mặt ra những con đường lớn và có hoạt động buôn bán ở những ngã đường nhỏ. Còn đằng này, một thành phố cảng có quy mô kém hơn vương đô rất nhiều, nhưng lại chẳng thấy có bóng dáng người thuộc về tầng lớp thấp, ngược lại mức độ an ninh thì lại quá cao khi cứ rẽ sang một cung đường mới thì lại gặp một nhóm tuần tra khác. Kèm với đó là những ánh mắt khinh thường từ đám lính đi tuần kia.
Khi quan sát và phân tích được phần nào về thành phố này rồi thì Audrey chợt nhận ra, ông béo Musgrave đang chuẩn bị dẫn mọi người rời khỏi khu vực tường thành tiến ra vùng ngoại ô um tùm cây cối và đường đi thì xấu tệ chứ không được lót gạch đá như những nơi vừa đi qua.
“Chậm đã, chuẩn tướng Musgrave.” Anh vội réo ông ta lại, đồng thờ giơ nắm tay ngang đầu ra hiệu cho những người theo sau giữ nguyên vị trí. “Điện thờ chúng ta đến không nằm trong thành phố à?”
“Gì cơ? Chúng ta vẫn còn đang trong thành phố mà tư lệnh.” Ông béo tròn xoe mắt ngơ ngác hỏi.
“Phải, đúng là chúng ta còn đang trong thành phố nhưng bước thêm vài bước nữa là rời khỏi phạm phi của thành phố Sestios này rồi phải không?” Anh giải thích. “Thế thì, liệu giờ chúng ta rời đi trong khi chưa có chứng nhận của lãnh chúa, rồi đến lúc quay lại thì cần phải trình báo như thế nào? Tôi nghĩ chúng ta cần phải thay đổi kế hoạch, cần phải có con dấu xác nhận của lãnh chúa để tiện đi lại đã.”
“Đâu, không.” Ông béo huơ tay giải thích. “Tư lệnh nhầm rồi, bức tường thành này được dựng lên là để phân chia ranh giới của quý tộc và dân đen thôi.” Nói xong ông chỉ lên một tấm bảng được cấm bên ven đường, rồi đọc to nó lên. “Khu vực chỉ dành cho giới quý tộc và thượng lưu, dân đen muốn vào phải nộp phí thủ tục.” Xong ông lại khẽ chỉ ngón tay về phía một trạm gác có vài tên lính đang ngã ngớn tụ tập nói. “Tôi đoán đó là nơi binh sĩ nơi này dùng để kiểm soát vấn đề đi lại của người dân nơi đây. Chúng ta đi ra có lẽ không sao, nhưng khi đi ngược vào thì có thể tốn thêm ít phí đi đường.”
“Cái đất nước quái quỷ gì thế này? Việc đi lại giữa khu vực thường dân và quý tộc còn phải bị thu phí nữa sao?” Audrey bắt đầu tỏ ra khó chịu trong lời nói. Anh vẫn giữ thái độ bình tĩnh quay sang nói tiếp với ông mập. “Dù sao thì cũng chỉ là một ít phí qua đường, nó không thành vấn đề. Chúng ta cứ đến điện thờ trước, lúc quay lại rồi thì tính sau.” Xong anh lại giơ tay lên phất một cái ra hiệu cho những người phía sau tiếp tục đi theo.
Giống như ông mập Bertolmew Musgrave nói, khi đội hiệp sĩ dòng đền đi qua trạm gác đám lính canh vẫn chẳng quan tâm gì mà chỉ lo nốc hết vại bia này đến vại bia khác. Trong đôi mắt say xỉn của bọn chúng lúc này, đội của Audrey bị nhầm lẫn thành một nhóm có chức vị hiệp sĩ cao cấp hơn bọn chúng vì ai ai cũng mặc giáp trụ kín mít, lưng đeo khiên, và kiếm dài treo bên hông, lại có thêm áo choàng nữa nên chúng chẳng dám ló mặt ra để đòi tiền qua trạm. Vừa nhát, cộng thêm sự bê tha của chúng nên nhóm Audrey chẳng gặp rắc rối gì.
Mà bên này, nhóm của Audrey rời khỏi khu vực quý tộc và tiến vào khu dân nghèo được một đoạn thì anh bắt đầu cảm thán. Anh cảm thán về mức độ chênh lệch giàu nghèo ở nơi này. Anh cảm thán ở một tòa thành mà lại có hai thế giới đối cực với nhau mà chẳng hề có một điểm dung hòa nào ở giữa. Sự xa xỉ lộng lẫy của những bộ trang phục mà đám quý tộc anh thấy trên đường phố ban nãy, được đánh đổi bằng những mảnh vải rách nát đang khoác lên mình những người nơi đây. Tiếng nhạc du dương vang khắp đại sảnh tráng lệ đánh đổi bằng sự yên lặng và than khóc ở nơi đây. Những bữa ăn thịnh xoạn trong các nhà hàng lại được đánh đổi bởi sự ốm đói của những đứa trẻ ngồi bên ven đường. Tường vàng mái bạc đồ sộ ở bên đó lại được đánh đổi bởi bùn đất trộn với cỏ dại dựng thành những túp lều tạm bợ được gọi là nhà quanh đây. Và cuối cùng, bầu không khí trong sạch, đường sá rộng rãi bên đó lại đánh đổi bằng sự ô nhiễm bên này và lối đi gập ghềnh bùn đất đầy ổ gà ổ trâu.
Tim của chàng tư lệnh dường như bị hẫng hết một nhịp vì sự chua sót vừa dấy lên trong lòng anh. Anh cảm thấy hoang mang vì từ trước đến nay chưa từng chứng kiến sự tàn độc nào giống như sự tàn độc đang diễn ra trước mắt anh. Người dân nghèo anh thấy nãy đến giờ đều thuộc về hai dạng, một là trẻ nhỏ, hai là người già không còn sức lao động. Nếu muốn nói đến dạng người thứ ba, thì có lẽ đó là những người bệnh đang nằm hấp hối đâu đó quanh những chiếc lều đất kia. Một vùng đất dù có chút màu mỡ, nhưng lại chẳng khác gì một vùng đất chết rồi vì chẳng một ai lao động ở đây cả. Không lao động sản xuất, không buôn bán kinh doanh, không trạm xá y tế, không truyền dạy kiến thức. Mọi người ở đây dù đang sống sờ sờ nhưng họ chẳng khác gì một cái xác biết đi cả.
Người lớn lẫn trẻ nhỏ ở đây đều có chung một đặc điểm, tay chân thì teo quắp, bụng thì phình to, chứng tỏ họ đều bị bỏ đói nhưng lại cố gặm rễ cây ngọn cỏ để chống lại cơn đói. Đi qua thêm một đoạn, Audrey lại thấy một đứa nhóc chỉ tầm sáu hay bảy tuổi đang tự nhào nặng những khối đất thành hình tròn dẹt sao cho trông như một cái bánh nướng, rồi nó lại đưa cho những đứa nhỏ hơn để gặm cho đỡ đói. Lại đi thêm một đoạn, anh thấy có hai người phụ nữ đang đứng lấp ló sau một căn chòi để đổi trẻ sơ sinh với nhau, rồi họ tách ra hai hướng với vẻ mặt vô hồn. Dù không dám khẳng định, nhưng linh tính đang mách bảo anh rằng hai đứa trẻ đó sẽ sớm trở thành bữa tối cho những người lớn nơi này.
“Ông Musgrave.” Audrey gọi ông mập với giọng hơi vội vàng. “Hiện chúng ta có mang theo thức ăn bên mình không?”
“Xin lỗi, thưa tư lệnh. Cậu hỏi vấn đề đó làm gì?” Ông béo thắc mắc. “Chúng ta chỉ đảm nhận do thám trong một thành phố nên hầu như trong đội chẳng ai mang theo lương khô cả. Nếu có thì họa may cũng chỉ đủ để một người nhâm nhi nhét kẽ răng thôi.” Ông lại nhìn theo hướng Audrey đang nhìn, đó là hướng hai người phụ nữa ban nãy đã đi cách xa nhau. “Cậu muốn chia sẻ thức ăn của chúng ta với những người này sao, thưa tư lệnh?”
“Không phải những người này, chỉ hai người phụ nữa kia thôi.” Audrey liếm môi, giờ đây anh cảm thấy như cổ họng mình như khô khốc và muốn nghẹn lại. Anh lại quay sang nói với những người còn lại trong đội. “Gì cũng được, hiện ai có mang thức ăn theo không? Không cần nhiều, nếu có thì hãy nhanh chóng đến vị trí của hai người phụ nữ kia để đổi lấy những đứa bé trên tay họ. Đây là lệnh.” Anh nói thêm khi thấy nhóm hiệp sĩ mình dẫn dắt vẫn còn lưỡng lự.
Sau lời nói của Audrey, vài hiệp sĩ trong đội vẫn còn chưa hiểu chuyện gì nhưng vẫn lục lọi ở thắt lưng ra những cái bánh, hay những thỏi thịt khô bọc bằng giấy. Họ gom lại xong cử hai người ra tức tấp đi trao đổi với hai người phụ nữ mà Audrey đã đề cập, xong quay về với hai đứa trẻ bị suy dinh dưỡng trong vòng tay. Một trong hai người bắt đầu nói với vẻ e dè. “Thưa chỉ huy, hai đứa trẻ đã được đưa về.” Rồi họ lần lược trao hai đứa bé sơ sinh cho Audrey và ông béo Musgrave.
Vừa ôm đứa bé vào lòng, chàng tư lệnh trở nên hốt hoảng không thốt nên lời. Anh vội nhìn qua ông béo thì ông ta lắc đầu. Ông nhìn đứa trẻ trong vòng tay của Audrey xong rồi nói. “Kể cả đứa trên tay của cậu, tư lệnh, xác chúng đã lạnh rồi. Chết vì không thể tiêu hóa đá sỏi.” Một câu nói ra, khiến cả ông béo lẫn chàng tư lệnh đều cảm thấy sự lạnh lẽo ở trong lòng.
Audrey đờ người ra vài giây, sau đó anh lại nói. “Ở điện thờ, sẽ có những cái quan vừa với chúng chứ?” Anh ngưng lại giây lát, hít thở thật sâu để điều chỉnh lại cảm xúc cá nhân. “Dù chúng đã chết, nhưng ít ra chúng ta cũng phải chôn cất chúng một cách tử tế và cẩn thận ở một nơi an toàn.”
“Cẩn thận? Một nơi an toàn?” Ông chuẩn tướng béo nhấn mạnh trọng âm. “Có chuyện gì sao, thưa tư lệnh?”
Trước khi kịp trả lời ông Musgrave thì Audrey đã để ý thấy những ánh mắt đói mồi của những người dân quanh đây đang dần tụ tập lại mỗi lúc một đông, và anh biết mục tiêu họ đang nhắm vào là gì. Chàng tư lệnh nhanh chóng kéo tay ông béo đi nhanh và bọc hai cái xác em bé sơ sinh lại bằng áo choàng của mình rồi vừa nói vừa ra hiệu cho toàn bộ hiệp sĩ phía sau nhanh chóng di chuyển. “Dẫn đường đến điện thờ, càng nhanh càng tốt. Tôi sẽ nói tất cả mọi chuyện cho ông biết.”
Một lúc sau nhóm của Audrey cũng đã đến được điện thờ. Dù là ở khu vực của người dân nghèo đói, nhưng điện thờ vẫn có một hàng rào tường đá bao bọc lấy. Khi đến đây nhóm của chàng tư lệnh không gặp chút khó khăn nào khi xác nhận danh tính lúc vào cửa, vì những bộ giáp mà đội viên anh đang mặc đã đủ nói lên thân phận của họ rồi. Dẫu vậy, Audrey vẫn rất để ý tình tiết xung quanh khi vừa bước vào sân ngôi điện này. Đồ nguy nga thì không thể so sánh với những tòa kiến trúc trong khu quý tộc, nhưng ở nơi dân đen như này thì phải nói, điện thờ này có thể xem là tòa kiến trúc to nhất cũng nổi bật nhất khu này rồi.
Đón tiếp nhóm của Audrey là một cha sứ đã già lọm khọm, gương mặt nhăn nheo, răng cũng chẳng còn được mấy cái. Y phục của ông thì tương đối khá hơn so với những người dân thiếu vải ngoài kia, nhưng bộ trường bào vốn là màu trắng của ông giờ cũng đã ố vàng, nhiều vết bùn đất không thể tẩy trắng được nữa, và phần tà áo đã rách nát đến nỗi để lộ ra chiếc quần đen bạc màu nhiều lỗ vá của người cha sứ già. Đó chỉ là để nói về việc vị cha sứ này may mắn hơn những người dân ngoài kia vì còn có nơi cư trú tương đối rộng rãi và y phục vẫn còn chấp nhận được, nhưng chung quy ông vẫn gầy ốm không khác gì những người dân đang nằm ngoắc ngoải ngoài kia cả.
“Chào các hiệp sĩ đến từ Thần Điện. Tôi là cha sứ Ragnvald, già này có thể giúp gì cho mọi người?” Ông già khọm niềm nỡ chất giọng yếu ớt của mình để đón tiếp nhóm của Audrey sau khi đã đưa mọi người vào trong sảnh chính, nơi vốn để các giáo đồ và chúng dân cầu nguyện và thờ phụng nhưng giờ đã tan hoang phủ đầy bụi.
“Tôi là tư lệnh bờ Đông vừa nhậm chức, Audrey Red Heart.” Giới thiệu bản thân xong, chàng tư lệnh lại ngó quanh đại sảnh lần nữa dò hỏi. “Trước khi nói mục đích chúng tôi đến đây, thì tôi muốn hỏi vì sao nơi này lại trở nên tồi tàn như này?”
“Điện thờ phủ bụi nhiều như này là do chẳng còn ai dọn dẹp nữa.” Ông lão thở dài đầy phiền não.
“Vì sao không ai dọn dẹp?” Ông béo Musgrave hỏi, vừa vuốt ria mép.
“Thì chẳng còn ai đến đây để cầu nguyện nữa thì dọn dẹp để làm gì? Cả điện thờ này, trừ tôi ra thì chẳng còn tu sĩ nào ở lại nữa cả.”
“Sao chỉ còn lại mỗi ông?” Ông Musgrave cau mày hơi lớn giọng hỏi. “Theo như báo cáo từ Thần Điện, thì nơi này ít ra cũng phải có gần năm mươi người mới đúng chứ? Những người còn lại đâu rồi?”
“Họ... họ đã từ bỏ đức tin của bản thân mà trở nên sa đọa rồi.” Ông Ragnvald trở nên nghẹn ngào.
“Từ từ đã, ông hãy nói rõ mọi chuyện xem nào.” Audrey vội vỗ vai an ủi ông lão, rồi dìu ông ngồi xuống một băng ghế vừa được phủi bụi một cách qua loa. “Chuyện những tu sĩ trở nên sa đọa là như thế nào? Vấn đề này cũng là một trong những nguyên nhân chúng tôi đến đây.”
“Để nói ra thì chuyện này rất là dài, nhưng nếu tóm gọn thì mọi vấn đề đều là do lũ quý tộc nắm giữ quyền lực quá nhiều nên mới xảy ra chuyện như vậy.” Ông lão nói, nét mặt không giấu đi được nỗi ưu phiền. Ông hít một hơi thật sâu rồi thở ra thật dài, sau đó mới tiếp tục. “Cái đất nước này đã thối nát từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài rồi. Hoàng gia cai trị đất nước này không có chính sách nào ngoại trừ hai từ óc lột và hà hiếp cả. Ban đầu là đánh thuế cực nặng tầng lớp trung lưu, sau đó là tới những người dân hầu như không có thu hoạch. Nếu không ai nộp thuế được thì sẽ bị bắt làm nô lệ, nữ thì sẽ bị bán cho nhà thổ hoặc làm công cụ thỏa mãn tình dục cho đám binh sĩ. Để tránh gặp tai họa, đền thờ và các nhà nguyện khắp nơi đã tiếp nhận những người phụ nữ gia nhập giáo hội để họ trở thành nữ tu sĩ. Chúng tôi nghĩ, nếu làm vậy thì ít ra những người phụ nữ đó sẽ được hào quang của điện thờ che chở, không gặp phải những tình huống tồi tệ hay xâm hại xác thịt. Nhưng không ngờ, cũng chính vì hành động này của chúng tôi mà đám quý tộc đã ghi thù. Chúng không còn kiêng nễ mặt mũi của Thần Điện nữa mà trực tiếp ban bố lệnh thanh tẩy điện thờ nhà nguyện khắp vương quốc. Chúng gán cho điện thờ tội danh chứa chấp tội phạm, và đưa binh sĩ đến bắt người mà chẳng cần phân biệt đó là ai.” Kể đến đây thì ông cha sứ lại trở nên căm phẫn. “Càng quá đáng hơn là, những nữ tu thuộc dòng chính thống của đền thờ cũng bị bắt đi và bị lột đồ đem diễu hành khắp thành phố với tội danh đã phạm vào tội dâm dục của giáo điều. Chúng công khai ghép tội không có thật, rồi cưỡng bức họ trên quãng trường với danh nghĩa là trừng phạt họ. Không chỉ một, mà đã có rất nhiều tên quý tộc và binh sĩ đã tham gia vào vụ này. Mà việc phán xét không chỉ một buổi, mà kéo dài cả một ngày. Nhưng không chỉ một ngày mà còn kéo dài từ ngày này sang ngày khác. Cho đến khi những nữ tu sĩ ấy không còn trụ được nữa thì chúng mới tống họ lên xe áp tải, chuyển đi nơi khác.” Đến lúc này thì ông Ragnvald không còn cầm được nước mắt nữa mà ông cứ khóc tu tu như con nít, còn cõi lòng ông lúc này tựa như vết thương cũ chưa lành mà lại bị xé ra lần nữa để sát muối lên.
“Vậy, những hiệp sĩ bảo vệ điện thờ đâu? Họ là bức tường bảo vệ đầu tiên của điện thờ mà.” Audrey bắt đầu truy xét những nhân tố liên quan.
“Những gã đã phản bội lại lời thề hiệp sĩ đấy à? Khi nhìn thấy đội binh sĩ hùng hậu của mấy tay quý tộc mang tới thì chúng đã tự thả kiếm xin hàng rồi, còn bảo vệ được ai nữa?” Cha Ragnvald căm phẫn kể lại bằng giọng đanh thép. Xong ông lại nhẹ giọng nuối tiếc. “Nhưng không phải là toàn bộ. Đã có một số ít hiệp sĩ vẫn còn giữ được lời thề của mình mà rút kiếm bảo vệ nơi này, rồi họ cũng đã bị tước đi sinh mạng một cách chóng vánh. Tinh thần phản kháng của họ rất đáng khen, nhưng sức lực không đáng kể. Dù biết là sẽ chết nhưng họ vẫn không ngần ngại đứng lên để bảo vệ những kẻ yếu thế như chúng tôi. Họ thật sự là những hiệp sĩ tuyệt vời mà Thần Điện đã có.”
“Có vẻ như thử thách đầu vào trường đào tạo hiệp sĩ dòng đền cũng có tác dụng thực tiễn đấy chứ.” Ông béo Musgrave nhún vai nói. “Những tên hèn nhát từ bỏ thanh kiếm của mình thì không xứng làm hiệp sĩ.”
“Vậy những tu sĩ biến chất thì cũng tựa tựa như mấy tay hiệp sĩ hèn nhát kia phải không, cha Ragnvald?” Audrey hỏi lần nữa, như muốn kết thúc màn tra xét lần này.
“Dù có nhiều tình tiết khác nhau, nhưng chung quy thì những tên tu sĩ biến chất đó cũng cùng một ruột với đám hiệp sĩ hèn kia. Chúng không những đầu hàng từ sớm, mà còn chủ động mở cửa để đám quý tộc bắt những vị nữ tu đi. Và chúng cũng là những tên tham gia cưỡng bức tập thể các vị nữ tu ở quảng trường với vẻ mặt hả hê nhưng lại biện minh cho hành động đó là nhân danh điện thờ làm lễ rửa tội.” Ông cha sứ già lần nữa bực tức chửi rủa. “Một lũ ti tiện đê hèn.”
“Được rồi, tôi đã hiểu hầu hết mọi chuyện rồi.” Audrey nhẹ giọng lần nữa, xong anh lại xõa áo choàng của mình ra để lộ hai thi thể của hai bé sơ sinh đã lạnh ngắt. Anh nói. “Phía sau điện thờ có lẽ vẫn còn đất trống để an táng hai đứa bé này nhỉ? Ông có sẵn quan tài kích cỡ phù hợp không?” Sau câu hỏi của chàng tư lệnh, ông Ragnvald chỉ biết nhìn anh như người cõi trên mới rớt xuống. Ở cái khu đói rách này, rễ cây còn không có để mà ăn chứ nói chi đếm việc có một cái cây đủ lớn để làm quan tài. Nhưng cuối cùng, xác của hai đứa trẻ đã được bọc trong những thước vải màu trắng để thay thế cho vải liệm và được chôn cất ở khu vườn đằng sau điện thờ.
Tại nghĩa trang, sân sau của điện thờ. Sau khi chôn cất hai đứa bé, cha sứ Ragnvald cũng tiện miệng kể thêm về những hành động máu lạnh của giới quý tộc tại đây, cũng như sự bị ép buộc phải nhẫn tâm của người dân thuộc tầng lớp đáy xã hội của vương quốc này. Không riêng gì thành phố cảng Sestios này, mà cả vương quốc Ila Erone đều có những hiện tượng tương tự, đó là ăn thịt đồng loại để sinh tồn hoặc ăn vì thể hiện đẳng cấp quý tộc của bản thân. Nói cách khác, lũ quý tộc nơi này không khác gì lũ ác quỷ đội lốt người, còn người dân muốn sinh tồn thì buộc phải ăn hoặc là bị ăn, và họ cũng dần bị biến chất, điên loạn, và cuồng tín.
Sestios này chỉ là một thành phố cảng nhỏ nên không thể lột tả được toàn cảnh vương quốc Ila Erone đang trượt trên con dóc suy đồi hiện nay. Ở những thành phố lớn hơn và tại vương đô vương quốc Ila Erone này, người chết đói và bị bỏ đói nhiều hơn cả thây ma ngoài bãi tha ma gấp mấy lần. Những con dã thú, và quái vật hoang dã vốn hoạt động rất mạnh, nhưng vì một nguyên do gì đó chúng đã biến mất không một vết tích. Bên cạnh đó, vì sự biến mất của những sinh vật hoang dã nên đất đai màu mỡ ban đầu cũng dần mất đi sức sống và không thể canh tác được nữa.
Mất đi nguồn cung cấp lương thực từ việc trồng trọt, thì những con gia súc gia cầm là những sinh vật đầu tiên bị đem đi làm thịt. Khi những con vật này không còn, thì hải sản là nguồn cung mà mọi người hướng tới. Nhưng, kể cả hải sản cũng vậy, đều đánh bắt được với số lượng cực ít mà không rõ nguyên do. Giờ những món ăn có liên quan đến hải sản chỉ có thể xuất hiện được trên bàn ăn của quý tộc. Mà trên bàn ăn quý tộc thì bọn chúng càng muốn thể hiện thêm địa vị của bản thân, bằng cách mổ sống thai phụ tại bàn tiệc để lấy đứa trẻ làm thức ăn. Còn người phụ nữ bị mổ sống kia sẽ bị đưa xuống lò mổ để làm thành thức ăn nuôi binh sĩ. Mà những người phụ nữ đó, là bị bắt từ khu dân đen ở khắp nơi đem về hầm ngục để nuôi nhốt. Nếu ai chưa mang thai, thì sẽ bị cưỡng bức cho đến khi nào mang thai rồi bị nhốt chờ đến ngày bào thai thành hình thì sẽ bị mang lên bàn tiệc.
“Bọn chúng là ác quỷ, chứ không còn là con người nữa rồi.” Audrey trầm mặc nói với tông giọng nặng nề. Dù nói nhỏ nhẹ, nhưng sự căm phẫn của anh đã gần như đạt đến đỉnh điểm. “Dù có là gia súc thì cũng chưa chắc đã có ai làm như vậy huống chi là con người.”
“Đúng vậy.” Ông cha sứ già cũng đồng tình. Ông ngửa mặt lên nhìn bầu trời đêm mà thở dài. “Cũng gần đến giờ ăn tối rồi. Không biết tối nay sẽ có thêm bao nhiêu thai nhi bị đem lên bàn tiệc, không biết sẽ có bao nhiêu thai phụ lại mất mạng một cách đau đớn. Chuyện này giống như có một bàn tay bí ẩn khổng lồ ở phía sau thao túng mọi thứ vậy. Thật khó tin đây là thế giới mà tôi đang sống.”
“Ông nói đúng.” Audrey vỗ vai ông cha sứ già. “Vương quốc này đã bị một bàn tay nào đó thao túng chơi đùa. Nhưng việc ác của lũ quý tộc và hoàng gia đã làm thì không thể chối cãi được.” Anh đứng lên rồi hùng hồn ra lệnh. “Ông Bartolmew Musgrave, kế hoạch của chúng ta sẽ thay đổi. Ông hãy chỉ huy đội, đồng thời hộ tống cha sứ trở về tàu. Tôi sẽ đi giải cứu những nữ tu sĩ đã bị bắt trước đó.”
“Không cần phải giải cứu đâu.” Cha già Ragnvald nói, giọng như nghẹn lại. “Những nữ tu sĩ kia, họ đã không qua khỏi rồi. Còn những phụ nữ bị bắt đi như gia súc, giờ họ chẳng khác gì một cái xác không hồn khi cứ bị cưỡng bước liên tục từ ngày này qua ngày khác, hết người này đến người khác. Cậu phải giải thoát họ khỏi lồng giam xác thịt, chứ không phải ngục tù được xây lên bằng đất đá, bằng xiềng xích.” Ông đưa hai tay lên nắm lấy đôi tay của Audrey mà nhắn nhủ. “Tinh thần của những người phụ nữ ấy đã bị hủy hoại rồi, họ không thể nào chịu nổi những cực hình kia nữa. Đặc biệt là việc bị ép phải ăn đồng loại, cũng như phải mất đi những đứa con ngoài ý muốn trong bụng mình.” Ông lại quỳ sụp xuống mếu máo nói bằng tất cả sự chân thành. “Xin cậu, ngài tư lệnh. Xin cậu hãy giải thoát cho những người đang bị giam cầm trong cái thân xác bị nguyền rủa này. Trong đó có cả tôi. Việc tôi có thể vững chí sống đến bây giờ, có lẽ là vì đợi những người như cậu đến để kể lại toàn bộ sự thật, và mong cầu sự giải thoát cho chúng tôi.”
“Cha sứ Ragnvald, ông đã từng ăn thịt đồng loại rồi à, dù đó chỉ là vì mục đích sinh tồn?” Audrey ôn tồn hỏi.
“Tôi chưa, nhưng tôi không thể tiếp tục sống như thế này được nữa.” Ông gục mặt xuống giải bày. “Những lời nguyện cầu của tôi dường như không thể với tới thần linh, tôi đã bị các vị thần ruồng bỏ.”
“Đó không phải lý do để ông chết như vậy.” Ông chuẩn tướng béo tốt nói thêm vào an ủi.
“Mọi người đừng khuyên nữa.” Ông cha sứ giơ tay cản lại. “Nếu muốn tốt cho tôi, thì xin mọi người hãy giúp tôi được ra đi thanh thản. Dù có rời khỏi đây thì tôi cũng chẳng thể sống thêm được bao lâu nữa, nhưng lại phải bị ám ảnh những gì đã xảy ra tại đây đến cuối đời. Điều đó sẽ mang lại một bóng tối tâm lý to lớn cho linh hồn của tôi, có thể khiến tôi bị lạc lối trong quá trình đi đến vùng đất của các vị Thần.”
Thấy cha sứ Ragnvald kiên quyết như thế, Audrey cũng rất khó quyết định có nên xuống tay với ông ta hay không, anh thật lòng không muốn phải xuống tay với một người già dù ông ta đã mất hết chí cầu sống. Anh quay sang nhìn mọi người lần lượt như muốn hỏi ý kiến của họ nhưng ai cũng gục mặt lảng tránh, rồi ánh mắt anh dừng lại trên người ông chuẩn tướng Musgrave. Ông béo ấy cũng chỉ đành nhắm mắt miễn cưỡng gật đầu ngầm ra hiệu cho anh nên làm theo di nguyện cuối cùng của cha sứ. Cuối cùng, chàng tư lệnh không còn lưỡng lự khi tuốt kiếm ra khỏi vỏ với tinh thần cao thượng của hiệp sĩ, và ban cho cha sứ Ragnvald một đường kiếm nhanh gọn tiễn đưa ông về với suối vàng mà không để ông nhận ra sự đau đớn của lưỡi kiếm vừa lướt qua. Khi xác của ông ngã gục xuống, cũng là lúc anh hạ lệnh.
“Chuẩn tướng Musgrave nhận lệnh. Ông hãy chỉ huy đội và đưa xác cha sứ nguyên vẹn về tàu.” Giọng của Audrey lúc này trầm hơn bao giờ hết. Nhưng giọng càng trầm, thì lại càng tỉ lệ nghịch với sự phẫn nộ đang dần dâng trào trong anh lúc này. “Về phần tôi, tôi sẽ đến lâu đài của lũ quý tộc kia để giải thoát những linh hồn còn lại khỏi nhà tù thể xác.”
6 Bình luận
Sao tui thấy tỉ lệ thuận hay hơn
Chỉ đọc thôi mà cũng có thể làm t sôi máu đến mức này r :)
TFCT